Trạng thái :  
Tham gia : Jul 2010
Bài gửi : 1,036
Tên thật: Giuse Phạm Đăng Vinh
Đến từ: Gx Hàng Xanh
Sở thích: Cafe-8-Online
Nghề nghiệp: Bảo trì
Cảm ơn 5,276
Được cảm ơn 7,494 lần
trong 952 bài viết
Tiểu sử Thánh Gioan Bosco
Tiểu Sử Thánh GIOAN BOSCO (tt)
MỘT THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI TRẺ
Cho tới bây giờ, Don Bosco mới cảm thấy có thể làm được đôi việc cho trẻ. Ngay trước lúc em bé trên đến, đã có mười em khác đến với Don Bosco và cũng được cha kiếm cách nhét vào nhà Pinardi. Sau mùa đông năm 1851, lúc đã mua bán xong khu đất Pinardi, Don Bosco tiếp nhận khoảng 30 trẻ nội trú.
Nhà nội trú có một nếp sống kể là khác thường vào thuở ấy. Buổi sáng, sau giờ cầu nguyện chung, các học sinh vào xưởng hoặc nhà máy, dùng một chút điểm tâm tay cầm. Buổi trưa, các em tụ về nhà bếp dùng bữa trưa do chính Don Bosco làm đầu bếp và bây giờ còn đeo chiếc tạp dề trắng để phục vụ các em. Bọn trẻ có thể làm ca chiều và trở về vào buổi tối, dùng bữa tối, thế rồi Don Bosco làm thầy giáo rà lại bài vở cho các em.
Các hoạt động của trường tăng lên, đồng thời cũng tăng sự vất vả cho mẹ của Don Bosco đã ngoài tuổi sáu mươi. Bà làm việc luôn tay suốt cả ngày: lau nhà, giặt vá, chăm sóc các em bị bệnh. Bọn trẻ vốn trẻ tính. Do đó, sự cẩu thả của các em gia tăng cho bà vô vàn công việc không tên. Bà cảm thấy thấm mệt vì cây sào phơi quần áo bị rớt xuống, vườn rau bị dẫm nát, vì hết giặt lại tới vá, rồi lại vào bếp dọn bữa. Bà đã đi báo cho Don Bosco biết ý định về quê.
Don Bosco thấu hiểu lòng mẹ nên giữ im lặng. Cha trỏ tay lên cây Thánh Giá trên tường. Mẹ Magarita đã hiểu, nước mắt mẹ long lanh. Bà nói nhỏ với Don Bosco: “Con đúng rồi”. Rồi bà đeo lại chiếc khăn làm bếp lên người.
NHỮNG DỰ ÁN VÀ KẾ HOẠCH
Vừa khi Don Bosco kết thúc một kế hoạch nào, cha đã khởi sự một kế hoạch khác. Cha xây liên tiếp một nhà nội trú cho 150 chú nhóc, một nhà nguyện mới tương xứng với số học sinh gia nhập nguyện xá tăng lên, đồng thời cha cũng đi đầu mở hệ học buổi tối và trường huấn nghệ cho các thợ có tay nghề trong tương lai. Cha xây các xưởng dạy đóng giầy, cắt may, mộc, đóng sách, in và đồ sắt. Một lần nữa, Don Bosco lại dùng nhóm giáo viên có gốc ở nguyện xá. Các trường của Don Bosco được xếp vào loại nhất ở Tôrinô nhờ vào tinh thần và sự hướng dẫn của chính Don Bosco, là người được xếp vào hàng các nhà giáo dục tuyệt vời của Châu Âu thuở đó.
Một vị giáo sư nổi tiếng và là bạn cộng sự của Don Bosco đã giải thích lý do vì sao: “Tình yêu của Don Bosco tỏa ra trong ánh mắt và lời nói. Người ta có thể cảm nhận được điều ấy chẳng chút hồ nghi ... Người ta còn cảm nghiệm được niềm vui dạt dào khi có sự hiện diện của Don Bosco”.
Tuy nhiên, Don Bosco có những yêu cầu đối với các giáo viên cộng tác. Vào thời đại mà các ông thầy còn coi các trận đòn như là công cụ không thể thiếu được trong nghề, Don Bosco đã dứt khoát ngăn cấm mọi việc thô bạo như thế đối với các thanh thiếu niên. Cha khuyên rằng: “Hãy làm cho mình nên đáng yêu. Muốn được trẻ vâng lời, hãy sống với các em như người cha, chứ không phải như người bề trên”.
Theo quan điểm của Don Bosco, trách nhiệm của người thầy không chỉ trải rộng từ lớp học đến các cuộc trao đổi cá nhân với học sinh, nhưng còn đi đến việc tạo nên một môi trường tại nguyện xá được diễn tả bằng tình yêu và niềm vui của người Kitô hữu.
Don Bosco không thể đòi hỏi như thế trừ khi chính cha đã đi tiền phong. Cha đã hòa mình vào giờ giải trí với học sinh, nêu thách thức trong chuyện trò và nói đùa với họ. Như một lực sĩ thượng thặng dù tuổi ngoài 50, Don Bosco thường chạy đua với đám trẻ. Dù gặp rắc rối bởi tính giãn tĩnh mạch ở tuổi 54, Don Bosco vẫn còn có thể chạy vượt qua bất cứ ai trong họ. Don Bosco tôn trọng sự tự do của trẻ và còn đem sự tôn trọng vào mọi lãnh vực và chương trình trong nguyện xá. Nếu cần phạt một học sinh nào, cha cẩn thận để không bao giờ hạ nhân phẩm các em hoặc làm các em cay đắng.
Don Bosco có những kỹ năng của một nhà giáo dục lớn: biết liên kết giữa quyền bính và tự do, kỷ luật và tình bằng hữu, mệnh lệnh và sự sôi nổi tuổi trẻ.
Don Bosco thường nhắc nhở: “Không có tình thân sẽ không có tin tưởng, không có tin tưởng sẽ không có giáo dục”.
Đạo giáo đối với Don Bosco không đơn thuần là phần phụ thêm của giáo dục. Cha thấy việc tương giao với Thiên Chúa là cội nguồn hoạt động và tăng trưởng của mọi người.
Đối với Don Bosco, việc trình bày cho học sinh về Thiên Chúa là Cha được coi là điều căn bản. Don Bosco đã thực hiện được điều ấy một cách hiệu quả, bởi vì cha là người cha đáng yêu của nguyện xá. Cha thúc đẩy cho học sinh biết rằng, các em đang sống trong sự hiện diện của Cha trên trời, Đấng yêu thương các em.
NGƯỜI ĂN MÀY ĐÁNG YÊU
Don Bosco xác tín rằng chính Đức Maria mà ngài xin làm Đấng Bảo Trợ, đã mong muốn ngài xây dựng ngôi thánh đường này. Đây là trung tâm hành hương và tôn kính Thánh Thể Chúa.
Trong suốt thời gian xây dựng đền thờ Thánh Tâm Chúa vĩ đại và nguy nga, Don Bosco luôn thanh toán được các hóa đơn nợ. Khi cạn tiền, cạn nguồn, Don Bosco sẵn sàng đi xin. Những chuyến đi quyên góp của cha hầu như luôn mang dấu ấn hóm hỉnh.
Ngày kia, khi giấy nợ xếp chồng khá cao, Don Bosco đi thăm một người rất giàu đã nằm liệt giường ba năm. Sau một hồi chuyện trò, Don Bosco xin ông thay áo đến ngân hàng để rút tiền nhằm thanh toán cho các chi phiếu xây dựng nhà thờ. Ông lẩm bẩm: “Tôi không đi được. Ba năm qua tôi đã ra khỏi giường đâu!” Don Bosco nói với ông: “Ông hứa đi, Đức Mẹ sẽ kéo ông ra ngay”. Ông đã hứa nên ông cũng đã ra khỏi giường. Don Bosco không có may mắn đi cùng ông tới ngân hàng.
Nhiều người nghĩ rằng Don Bosco là nhà kinh tế tài năng vì khả năng kiếm ra tiền. Thật ra điều gì nói về cha cũng có thể đúng, trừ điều trên. Một bà nhà giàu xem Don Bosco là nhà tư bản tài chính lớn, đã xin ý kiến xem nên đầu tư tiền bạc của bà ở đâu cho tốt nhất. Chẳng nói câu nào. Don Bosco đơn sơ ngửa hai bàn tay của mình ra trước mặt bà.
Đã có hàng triệu Mỹ kim đi qua bàn tay Don Bosco, nhưng cha không giữ lại một xu cho mình. Quả vậy, cha sống nghèo; thậm chí còn tiết kiệm từng phần giấy trắng của những lá thư đã viết, biết nhuộm đen sợi làm dây giày, tiết kiệm từng tờ giấy báo, từng sợi dây. Cha dùng chiếc áo khoác phế thải nhà binh và chiếc mền cũ nhà binh xếp ở giường. Xem mình như người đầy tớ, một người giúp việc, cha vui vẻ phục vụ bàn ăn cho học sinh, khâu vá quần áo và cắt tóc cho các em. Vốn là người nghèo, cha cảm thấy tất cả mọi công việc cực nhọc kia là của mình. Cha nghiêm khắc cảnh cáo các tu sĩ của mình rằng, một khi họ không còn yêu sự nghèo khó nữa, thì đó là lúc hội dòng của họ tới ngày tận số.
NGƯỜI MẸ ĐẦY ÂN PHƯỚC
Don Bosco đã kêu cầu nhiều với Mẹ Rất Thánh. Một lần, có cha sở xin Don Bosco phụ trách giảng tuần tam nhật trước lễ Mẹ Lên Trời cho giáo xứ. Giáo xứ đau khổ vì ở trong khu vực bị hạn hán khủng khiếp và kéo dài. Những nông dân này hầu như đã tuyệt vọng.
Mở đầu bài giảng, Don Bosco nhắn mọi người rằng: “Hãy tham dự đủ ba ngày này. Hãy xưng tội. Hãy sửa soạn hết sức để sốt sắng rước Chúa trong ngày lễ Mẹ Lên Trời, và tôi xin hứa với anh chị em rằng, nhờ danh Mẹ, sẽ có mưa để làm tươi lại mảnh đất khô cằn của anh chị em”.
Sau bài giảng đầu tiên đó, cha sở nọ đã nổi nóng và bắt lỗi Don Bosco đã dựng nên những hy vọng hão huyền. Cha sợ dân chúng sẽ trút cơn giận lên cả hai người, khi trận mưa hứa hẹn không xảy ra.
Ba ngày dân chúng đã chen chúc trong ngôi thánh đường. Đúng lễ Mẹ Lên Trời, ngày sẽ có biến cố được hứa trước, Don Bosco thức giấc nhìn lên bầu trời. Trời vẫn xanh ngắt không một vẩn mây. Mặt trời ban mai đã thiêu trụi bụi đất. Trên đường tới thánh đường dâng lễ sáng, Don Bosco đã bị đám đông vây quanh hỏi: “Liệu trời có mưa không?” Don Bosco chỉ bình thản đáp: “Hãy thanh tẩy tâm hồn!”
Ngày đã tàn, bầu trời vẫn xanh biếc như khối cẩm thạch. Tối đến, dân chúng lại họp mặt tham dự lễ bế mạc, vậy mà trời chẳng có lấy một dấu hiệu nào sẽ mưa. Khi Don Bosco vào thánh đường cử hành nghi lễ, cha nhìn về phía chân trời một lần nữa. Trời xem như trong vắt. Một vẩn mây xám treo trên bầu trời như một miếng vải rách nhỏ xíu trong bầu trời xanh.
Don Bosco bước lên tòa giảng. Hàng trăm con mắt đổ dồn về cha, mang theo cùng một câu hỏi “Khi nào trời mưa?” Phút chốc, những gương mặt thắc mắc và tra hỏi này đã đanh lại, rồi chua cay và thất vọng.
Đột nhiên chớp xé ngang bầu trời, sấm nổ, rồi những hạt mưa to đầu tiên rơi lộp bộp trên mái nhà. Những nông dân có cơ hội sống hạnh phúc hơn, đã hò reo và cất lên những bài hát rộn ràng. Cha sở chính là người được nhẹ nhõm nhất trong vùng, dù chẳng bà con nào nhận ra điều đó.
NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI
Công cuộc phục vụ các em nam được mở rộng, bao gồm cả các em nữ nữa. Các nữ tu Salêdiêng, một trong những tu hội nữ lớn trong Giáo hội đã tiếp nối giấc mơ và thách đố xưa của Don Bosco.
Khi Don Bosco bước vào tuổi 60, sức khỏe của cha ngày càng mong manh, nhưng cha vẫn tiếp tục làm việc và làm việc đến kiệt sức mình. Một ngày của cha được lấp đầy bằng việc dạy học, thảo luận và xem xét vô vàn những dự án.
Đầu năm 1880, các hội viên Salêdiêng Don Bosco đã vượt qua biên giới nước Ý để thiết lập nhà tại Pháp và Tây Ban Nha. Ngài mong ước được đi thăm họ. Bởi thế, năm 1883, khi Đức Thánh Cha Lêo XIII yêu cầu Don Bosco qua Pháp quyên tiền để hoàn tất công trình xây cất đền thờ Thánh Tâm ở Roma, Don Bosco đã hân hoan vâng lời. Cha có thể vừa quyên góp cho Đức Thánh Cha vừa thăm con cái thiêng liêng của mình.
Don Bosco thật sự xúc động trước sự tiếp đón nồng ấm mà dân Pháp dành cho cha. Họ đã đáp lại lời kêu gọi cách rộng lượng cho việc xây dựng nhà Chúa.
Một nhân chứng mắt thấy tai nghe đã kể lại: “Chưa hề có một đám người nào tập trung đông đảo ở Paris chung quanh một vị linh mục như thế, kể từ cuộc viếng thăm của Đức Piô VIII”. Don Rua khi nhớ về chuyến thăm Paris này đã nói: “Nếu chúng tôi có tới bảy thư ký, thì nhiều lá thơ vẫn còn bị để lại mỗi tối, vì không kịp trả lời”. Chuyến đi quả là vấn đề đáng sợ đối với sức khỏe đã yếu ớt của Don Bosco.
Mắt bên phải của Don Bosco bị đau triền miên, do bị thương trong một lần bị ngã từ nhiều năm trước. Chứng viêm tĩnh mạch khiến việc đi bộ của Don Bosco không được vững, hai hội viên phải đi kèm hai bên. Sự giúp đỡ ấy cần thiết kể từ lúc Don Bosco bị chứng hay ngủ đứng, dù đang đi giữa đám đông, chào thăm và ban phép lành cho dân chúng.
Ba năm sau, Don Bosco lại thực hiện một hành trình tương tự sang Tây Ban Nha và cũng được dân chúng tiếp đón nồng nhiệt như thế. Cha đã đi giảng trong những Vương cung Thánh đường nổi tiếng nhất ở Pháp và Tây Ban Nha. Don Bosco có thể nói cả tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, nhưng hình như không có “cái lưỡi của nhà hùng biện”. Dầu thế, dân chúng rất hiểu vì Don Bosco nói với họ bằng ngôn ngữ của trái tim.
Xưởng may và đóng giày sơ sài đầu tiên được mở vào mùa thu 1853, chiếm cái hành lang và xài luôn cái bếp cũ của nhà Pinardi.
NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI
“Cha làm tiêu hao đời mình vì làm việc quá sức. Toàn bộ thể trạng của cha khác nào cái giẻ mòn xơ cả chỉ vì xài nhiều. Không có thuốc chữa đâu, trừ khi chúng ta treo chiếc áo cũ này vào tủ một thời gian. Cha cần phải nghỉ ngơi hoàn toàn một thời gian”.
Don Bosco đã từng nghe những lời khuyên như thế của vị bác sĩ. Câu trả lời của Don Bosco luôn là: “Bác sĩ ơi, ông đã biết rồi mà. Đó chính là thứ thuốc tôi không thể dùng, vì tôi còn quá nhiều việc chưa làm”.
Gần những ngày cuối đời và được hai hội viên túc trực bên cạnh, Don Bosco còn thực hiện cuộc hành trình qua Tôrinô thăm những người nghèo, quyên góp nơi những người giàu, khích lệ những ai buồn phiền. Cha cũng biết rằng cái chết đã tới nơi nên thường nói: “Tôi muốn về thiên đàng, nơi đó tôi có thể làm việc tốt hơn nhiều cho các trẻ của tôi. Tại thế này, tôi chẳng làm được gì hơn cho bọn trẻ”.
Lúc này, bác sĩ của Don Bosco đã báo cho các Bề trên Salêdiêng đương nhiệm biết rằng: “Cha Bosco không chết vì một căn bệnh nào hết, người cha giống như một ngọn đèn tắt vì hết dầu”.
Tính hóm hỉnh nổi tiếng của Don Bosco chẳng giảm đi chút nào. Cha nhắc nhở cho hai hội viên vẫn đưa đón mình đi từ nơi này qua nơi kia: “Nhớ ghi tất cả vào hóa đơn, cha sẽ thanh toán hết mọi sự lúc kết sổ”. Có lần còn đang thở hổn hển, Don Bosco thì thầm vào tai hội viên đang lo lắng cúi người xuống bên cha: “Con có biết ở đâu có người làm ống bễ giỏi không?” Người hội viên bối rối hỏi lại: “Tại sao?”. Bởi vì cha cần một cặp phổi mới, thế thôi”.
Bệnh của Don Bosco kéo dài. Don Rua lãnh trách nhiệm điều hành Tu hội Salêdiêng. Yêu cầu đầu tiên của Don Rua là xin mọi người trong gia đình này, nếu có thể được, hãy về Tôrinô để chào tạm biệt người cha già. Từ khắp nơi, những người con tinh thần của Don Bosco đã về với cha. Don Bosco đã nhận vào trường nhiều em nhỏ bụi đời và nhà quê này để giúp đỡ các em lớn lên với tình yêu của Thiên Chúa. Họ đã đi ngang sát bên cha để nhận phép lành của cha.
Sau đó tới lượt các bạn trẻ đã từng tới nguyện xá ở Tôrinô sinh hoạt. Hàng trăm em, cứ hai người một đã đến và đi ngang qua giường của Don Bosco. Cha ban phép lành cho tất cả, khuôn mặt thì bình thản và hầu như trẻ lại. Vào đêm 31.1.1888, Don Bosco hướng mặt về phía Don Rua và nói: “Hãy nói với con cái của cha rằng, cha đợi tất cả ở thiên đàng”. Sau những lời đó, một trong những con người sáng chói, có một tinh thần mạnh mẽ và dũng cảm trong thế kỷ 19 đã qua đời.
Khi còn sống, Don Bosco muốn chết nghèo, và cha đã được toại nguyện. Vào ngày cha qua đời, nguyện xá Tôrinô có 800 miệng ăn mà không có lấy một xu. Tuy nhiên, điều ấy không làm ông chủ lò bánh mì ngưng giao bánh. Ông cũng như mọi người khác đều biết rằng, Don Bosco sẽ kiếm được tiền cả khi ở thiên đàng để nuôi đám trẻ của mình đang ở trần gian.
Năm 1939, Đức Thánh Cha Piô XI đã ghi tên Don Bosco vào sổ các thánh trong Giáo hội Công giáo. Năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gọi Don Bosco là “Cha và Thầy của Giới trẻ”.
ĐẨY MẠNH VIỆC TRUYỀN GIÁO
Từ những năm đầu đời sinh viên, Don Bosco đã mơ về những vùng đất xa xôi. Cha muốn trước khi qua đời có thể gởi những nam nữ Salêdiêng đi khắp nơi. Ngày nay công việc của cha được tiếp nối với hàng ngàn hiệp tác viên, chí nguyện và cộng tác viên.
Khi còn là một linh mục trẻ, Don Bosco đã xin đi truyền giáo, nhưng một giáo sư trong chủng viện đã nói nhẹ nhàng với cha: “Don Bosco, cha đã không thể đi nổi một chuyến xe ngựa mà không khỏi quặn ruột lên, lấy đâu làm nhà truyền giáo. Không đi được đâu, nhưng cha sẽ gởi nhiều người đi rao giảng và dạy lời Chúa”.
Năm 1875, mười sáu năm sau khi Don Bosco thành lập Tu hội Salêdiêng, cha đã gởi một nhóm mười người đầu tiên khởi đầu công cuộc truyền giáo ở Argentina.
Làn sóng di dân mạnh mẽ từ Châu Âu sang Mỹ Latinh đã xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 19. Số di dân đông đảo đến nỗi không có đủ nhà thờ và trường học nhằm đáp ứng những nhu cầu của họ.
Đây cũng là thời điểm của cuộc chiến tranh người da đỏ, khi những người mới đến đã đi sâu vào bên trong lục địa, đẩy những người da đỏ bản địa ra khỏi vùng đất của họ bằng cuộc chiến đẫm máu.
Mười vị truyền giáo Salêdiêng tiên khởi đã xuất phát vào ngày 11.11.1875, tiến tới Buenos Aires, nơi sẽ lập cơ sở chính của họ. Họ lập tức làm việc cho những di dân trong khu phố bần cùng tại cảng La Boca (Miệng Quỷ).
Một nửa nhóm tiến về miền nam lãnh thổ người da đỏ, trở nên dụng cụ giúp phục hồi lại hòa bình trong chiến tranh với người da đỏ.
Tiến về phía nam băng qua vùng Pampas rộng lớn, cuối cùng thì các nhà truyền giáo cũng đã tiến đến nam cực của lục địa là Tierra del Fuego (Hỏa Địa), miền đất vào thời điểm này là nơi trú ẩn của những kẻ vượt ngục, buôn lậu và tội phạm quốc tế. Một viện bảo tàng ở Punta Arenas ngày nay lưu giữ những kỷ niệm về những ngày đầu thử thách và vinh quang ấy.
Trong khoảng hai mươi năm, các vị truyền giáo đã thăm dò toàn vùng, thiết lập những trường canh nông, canh tác những dải đất rộng lớn và rao giảng lời Chúa. Bước tiến của những nhà truyền giáo là một chuỗi chinh phục, đôi lúc được trả giá bằng máu của chính họ.
Từ Ushuaia, thành phố cực nam của lục địa ở eo biển Magellan, các vị truyền giáo đã tiến lên miền bắc, băng qua Patagonia và lưu vực sông Amazon. Sau một thế kỷ, người Salêdiêng đang hoạt động tại hầu hết các quốc gia ở Mỹ Latinh.
SALÊDIÊNG PHỤC VỤ GIỚI TRẺ TRÊN THẾ GIỚI NGÀY NAY
Có gần 40.000 Salêdiêng linh mục, sư huynh và nữ tu đang phục vụ trên khắp thế giới, tại hơn 120 nước. Từ Sodertaije ở Thụy Điển, ngay dưới vòng Bắc Cực tới Ushuaia ngay trên vòng Nam Cực, từ New York tới San Francisco, Hong Kong, Bangkok và tiếp tục tới Rangoon, Calcutta, Cairo và vòng quanh thế giới. Người Salêdiêng đã đem tới sự săn sóc và quan tâm của nhiều thân hữu và cộng tác viên đến cho trên hai triệu bạn trẻ nam nữ.
NGƯỜI SALÊDIÊNG
“Là dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho giới trẻ.”
Thánh Gioan Bosco là một thiên tài của giới trẻ, đặc biệt của những em nghèo hoặc gặp khó khăn. Ngài khao khát mãnh liệt dành trọn cuộc sống làm việc cho giới trẻ. Ngài đã đạt tới điều mong ước đó bằng sự sáng tạo, táo bạo và lòng quảng đại lạ lùng.
Ngày nay, người Salêdiêng nỗ lực tiếp nối công cuộc của Don Bosco vì nhu cầu của giới trẻ nơi các trường học, câu lạc bộ thanh niên, giáo xứ, gia đình và nhiều hoạt động đa dạng khác, hướng về mục tiêu là giúp người trẻ đạt được hạnh phúc bây giờ và mai sau.
Lối sống của người Salêdiêng vừa thực tiễn vừa lý thuyết, và nhấn mạnh tới những kinh nghiệm sống cộng đoàn và phục vụ giới trẻ.
GIA ĐÌNH SALÊDIÊNG NGÀY NAY
Chính Don Bosco đã cưu mang ý tưởng về Gia đình Salêdiêng. Ngày nay, Gia đình này có 20 nhóm và làm việc hầu như ở mọi nước trên thế giới. Chúng ta có thể liệt kê vài nhóm:
Salêdiêng Don Bosco (SDB): những người theo tinh thần thánh Phanxicô Salê của Don Bosco, là một tu hội lớn trong Giáo hội, bao gồm linh mục, sư huynh đang hoạt động trên 120 nước trên thế giới.
Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA): được Don Bosco thành lập với sự cộng tác của thánh Maria Mazzarello, là một trong những tu hội lớn trong Giáo hội, là một sự hiện diện phẩm chất và năng động trong thế giới đang thách đố tác vụ giới trẻ.
Chí Nguyện Don Bosco (VDB): được cha Bề Trên Cả Philip Rinaldi thành lập, là một tu hội đời bao gồm các nữ tín hữu được thánh hiến, làm việc theo tinh thần của Don Bosco.
Cộng Tác Viên Salêdiêng: là những giáo dân và linh mục sống Tin Mừng trong thế giới theo tinh thần của Don Bosco, trong việc phục vụ giới trẻ và giáo hội địa phương.
Hiệp Hội Cựu Học Viên Don Bosco/FMA: bao gồm các cựu học viên Salêdiêng nam nữ cam kết dấn mình vào sứ mệnh giáo dục giới trẻ trong gia đình, khu xóm và Giáo hội địa phương.
Hội Truyền Giáo Giáo Dân Salêdiêng: gồm những người nam nữ, độc thân hoặc đã lập gia đình, tự nguyện làm việc trong thời gian một năm hoặc nhiều hơn, bên cạnh những SDB hay FMA tại các nước truyền giáo có người Salêdiêng phục vụ.
Ta có thể thấy Gia đình Salêdiêng được trình bày hàng tháng trong Tạp chí Nguyệt San Salêdiêng; được Don Bossco thành lập năm 1877 và hiện được xuất bản với hơn 40 ngôn ngữ trên thế giới